Bệnh ho gà ở trẻ em
1. Đặc điểm của bệnh
Ho gà là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp, thường xảy ra ở trẻ nhỏ. Khởi đầu của bệnh có thể không sốt hoặc sốt nhẹ, có viêm long đường hô hấp trên, mệt mỏi, chán ăn và ho. Cơn ho ngày càng nặng và trở thành cơn ho kịch phát trong 1-2 tuần, kéo dài 1-2 tháng hoặc lâu hơn. Cơn ho gà rất đặc trưng, thể hiện trẻ ho rũ rượi không thể kìm hãm được, sau đó là giai đoạn thở rít như tiếng gà gáy. Cuối cơn ho thường chảy nhiều đờm dãi trong suốt và sau đó là nôn.
– Ca bệnh lâm sàng:
+ Ho rũ rượi từng cơn liên tục, kéo dài, sau cơn ho có lúc ngừng thở, tím tái.
+ Thở rít vào sau mỗi cơn ho.
+ Nôn sau cơn ho, thoạt đầu nôn thức ăn, rồi đến nước dãi trong suốt.
+ Sau mỗi cơn ho trẻ mệt bơ phờ, mình đẫm mồ hôi và thở gấp.
+ Xét nghiệm máu thấy bạch cầu tăng rất cao từ 15.000 – 50.000/mm³, chủ yếu là tế bào Lympho.
– Ca bệnh xác định: Phân lập vi khuẩn ho gà (+) hoặc xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp đối với dịch tiết từ mũi họng bệnh nhân.
|
2. Tác nhân gây bệnh
– Tên tác nhân là Bordetella pertussis thuộc giống Bordetella gây bệnh ở người.
– Hình thái: Vi khuẩn ho gà là dạng trực khuẩn hai đầu nhỏ, thuộc loại vi khuẩn có kích thước nhỏ nhất, không di động, gram (-). Vi khuẩn phát triển tốt trên môi trường Bordet-Gengou có thạch máu với những khuẩn lạc điển hình.
– Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài: Vi khuẩn có sức đề kháng rất yếu. Vi khuẩn sẽ bị chết trong 1 giờ dưới tác dụng của nhiệt độ, ánh sáng mặt trời trực tiếp hoặc thuốc sát khuẩn thông thường.
3. Nguồn truyền nhiễm
– Ổ chứa: Người là vật chủ duy nhất. Bởi vậy, nguồn truyền bệnh là bệnh nhân, không có nguồn lây truyền ở người lành mang trùng hoặc người bệnh trong thời kỳ lại sức .
– Thời gian ủ bệnh: Thông thường từ 7 đến 20 ngày.
– Thời kỳ lây truyền: Bệnh ho gà lây truyền mạnh nhất trong thời kỳ đầu viêm long, sau đó tính lây truyền giảm dần và sẽ mất đi sau 3 tuần mắc bệnh, mặc dù lúc này cơn ho vẫn còn dai dẳng. Nếu được điều trị kháng sinh có hiệu lực thì thời gian lây truyền được rút ngắn và thông thường khoảng 5 ngày.
4. Phương thức lây truyền:Lây truyền do tiếp xúc trực tiếp qua đường hô hấp có các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng bệnh nhân khi ho, hắt hơi. Tính lây truyền rất cao ngay sau khi bị phơi nhiễm với giọt nước miếng của bệnh nhân, nhất là đối với những người sinh hoạt trong cùng một không gian khép kín lâu dài như hộ gia đình, trường học… Tỷ lệ mắc bệnh trong số những người trực tiếp tiếp xúc với bệnh nhân trong cùng gia đình (attack rates) từ 90-100%.
5. Tính cảm nhiễm và miễn dịch: Mọi người đều có cảm nhiễm với bệnh và sau khi mắc bệnh thường được miễn dịch lâu dài, đôi khi có thể bị mắc bệnh lần thứ hai (có thể là do B. parapertussis). Đến nay vẫn chưa biết rõ kháng thể miễn dịch ho gà của mẹ truyền cho con qua rau thai như thế nào?. Bệnh ho gà vẫn là một bệnh chủ yếu của thế hệ trẻ và tỷ lệ mắc bệnh cao nhất hiện nay là ở trẻ dưới 5 tuổi.
6. Các biện pháp phòng chống dịch
6.1. Biện pháp dự phòng:
– Tuyên truyền giáo dục sức khoẻ: Cần cung cấp các thông tin cần thiết về bệnh ho gà cho nhân dân, nhất là cho các bà mẹ, thầy cô giáo biết để cộng tác với cán bộ y tế phát hiện sớm bệnh, biết cách ly, phòng bệnh và cộng tác với cán bộ y tế cho con đi tiêm vắc xin DTP.
– Vệ sinh phòng bệnh:
+ Nhà ở, nhà trẻ, lớp học, vườn trẻ… phải thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.
+ Tại nơi có ổ dịch ho gà cũ, cần tăng cường giám sát, phát hiện sớm các trường hợp bệnh có cơn ho gà điển hình, nhất là đến khoảng thời gian chu kỳ của bệnh dịch ở địa phương.
+ Tổ chức tiêm vắc xin DTP đầy đủ theo Chương trình TCMR.
6.2. Biện pháp chống dịch:
– Tổ chức:
+ Thành lập Ban chống dịch do lãnh đạo chính quyền làm trưởng ban, lãnh đạo y tế địa phương làm phó ban thường trực và các thành viên khác có liên quan như: Y tế, Giáo dục, Công an, Hội Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ v.v…
+ Các thành viên trong Ban chống dịch được phân công nhiệm vụ để chỉ đạo và huy động cộng đồng thực hiện tốt công tác chống dịch.
+ Đối với vụ dịch nhỏ cần giành một số giường bệnh trong một khu riêng ở khoa lây bệnh viện để cách ly và điều trị bệnh nhân. Nếu có dịch lớn thì có thể thành lập bệnh xá dã chiến trong cộng đồng.
– Chuyên môn:
+ Những trường hợp mắc bệnh ho gà nhẹ có thể cách ly, theo dõi và điều trị tại nhà dưới sự giám sát của cán bộ y tế xã. Những trường hợp mắc bệnh ho gà nặng, bị bội nhiễm và có biến chứng cần được cách ly và điều trị tại Trạm Y tế xã hoặc Bệnh viện.
+ Cách ly đối với những trường hợp bệnh được xác định lâm sàng. Những trường hợp bệnh nghi ngờ cũng không nên cho tiếp xúc với trẻ nhỏ, nhất là những trẻ chưa được gây miễn dịch. Thời gian cách ly khoảng 3 tuần kể từ khi xuất hiện viêm long. Nếu được dùng kháng sinh có hiệu lực thì thời gian cách ly ít nhất 5 ngày nhưng bệnh nhân vẫn phải tiếp tục điều trị kháng sinh đủ liều trong 14 ngày. Bệnh ho gà có vắc xin phòng bệnh hiệu quả tốt. Cần tiêm vắc xin ho gà đơn hoặc vắc xin hỗn hợp (DPT) cho trẻ theo lịch của Chương trình TCMR.
+ Xử lý môi trường: Cần sát trùng tẩy uế đồng thời đối với dịch mũi họng và các đồ dùng bị nhiễm bẩn của bệnh nhân.
Phòng chống bệnh sởi
1. Nguyên nhân mắc sởi
Sởi là do tình trạng nhiễm vi rút rubeola. Đây là loại vi rút có sức chịu đựng yếu, dễ bị tiêu diệt bởi các thuốc sát khuẩn thông thường, ánh sáng mặt trời…Virus sởi tồn tại ở họng và máu bệnh nhân từ cuối thời kì ủ bệnh đến sau khi phát ban một thời gian ngắn. Bệnh rất dễ lây, thường gặp ở trẻ em, gây viêm long ở kết mạc mắt, đường hô hấp, tiêu hoá và các phát ban đặc hiệu. Có nhiều biến chứng nặng nề.Khi ai đó mang vi rút này hắt hơi, ho, những giọt nước li ti chứa vi rút sẽ lan toả. Vi rút trong các giọt nước bọt, dịch tiết của cơ thể này có thể tồn tại tới 2 tiếng ngoài không khí. Một đứa trẻ hay người lớn hít phải những giọt nước chứa vi rút này đều có thể bị nhiễm bệnh
Nếu hệ miễn dịch chưa được chuẩn bị thì khả năng phát bệnh là 90% khi tiếp xúc với người mang mầm bệnh. Sau đó, trong vòng 21 ngày, bệnh sẽ khởi phát.
Người mang vi rút sởi sẽ có khả năng lây truyền cho người khác từ 2 – 4 ngày trước và sau khi phát ban biến mất.
|
2. Đường lây
Người là nguồn bệnh duy nhất, lây trực tiếp qua đường hô hấp. Đặc biệt ở trẻ em chưa có miễn dịch, trẻ em từ 2 – 6 tuổi mắc bệnh nhiều.
3. Triệu chứng của bệnh sởi
a. Thời kì ủ bệnh: 10 -12 ngày.
b. Thời kì khởi phát
Hội chứng nhiễm khuẩn: Sốt 38,50C -400C, nhức đầu, mệt mỏi …
Hội chứng xuất tiết niêm mạc:
Mắt: Kết mạc đỏ, phù mi mắt, chảy nước mắt, sợ ánh sáng.
Hô hấp: Sổ mũi, hắt hơi, khản tiếng, ho khan, có khi có ít đờm.
Tiêu hoá: Nôn,chớ, đi ngoài phân lỏng.
Có hạt nội ban: Trên nền niêm mạc má đỏ hồng nổi lên những chấm trắng, nhỏ, đường kính khoảng 1mm.
c. Thời kì toàn phát
Sốt cao 390C – 400C, có thể mê sảng co giật, trẻ ho nhiều, viêm nhiễm và xuất tiết đường hô hấp, chảy nước mắt, có nhiều dử mắt.
Phát ban với đặc điểm:
Là ban rát sẩn, màu đỏ, hồng hay tía. Hình tròn hạt hình bầu dục, to bàng hạt đậu, hay cánh bèo tấm, sờ vào mềm, mịn như sờ vào tấm vải nhung, giữa các ban sởi có khoảng da lành.
Thứ tự mọc ban:
Ngày thứ nhất: Ban sởi mọc ở chân tóc, sau tai, sau gáy, trán, má đầu, mặt, cổ.
Ngày thứ hai: Ban mọc tới ngực lưng và hai tay.
Ngày thứ ba: Ban mọc xuống bụng và hai chân.
Ban sởi tồn tại hai đến ba có thể tới 5 ngày rồi lặn theo trình tự đã mọc để lại trên da những vết thâm vằn như da hổ da báo. Khi ban lặn các dấu hiệu lâm sàng khác giảm dần.
4. Biến chứng
Virus sởi phá huỷ lớp biểu mô niêm mạc và hệ thống miễn dịch, làm giảm lượng vitamin A, do đó trẻ có nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm khác.
Bội nhiễm: Viêm phổi, viêm phế quản, viêm thanh quản, viêm tai giữa.
Thần kinh: Viêm não sau sởi .
Suy dinh dưỡng do ăn uống kiêng khem.
Loét miệng: Các vết loét ở trong miệng, môi lưỡi; vết loét có màu đỏ, được phủ một lớp trắng rất đau. Vết loét có thể sâu, rộng làm cho trẻ ăn khó khăn.
Chảy mủ mắt.
Mờ giác mạc, đây là dấu hiệu nguy hiểm có thể do thiếu vitamin A.
5. Phòng bệnh
Tiêm phòng vác xin sởi đầy đủ cho trẻ dưới một tuổi.
Phát hiện sớm và cách ly trẻ bị sởi.
6. Giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh khi có dịch như thế nào?
Nếu chưa tiêm phòng mà sống trong vùng dịch thì phản ứng của cơ thể đối với vi rút sẽ phụ thuộc nhiều vào tuổi tác:
Nếu dưới 6 tháng tuổi và người mẹ đã từng bị sởi thì kháng thể từ mẹ sẽ truyền cho bé ngay từ trong bụng mẹ và bản thân trẻ đã có khả năng miễn dịch đối với bệnh này.
Nếu trên 6 tháng tuổi và đã từng tiếp xúc với vi rút sởi thì sẽ được tiêm vắc xin sởi để ngăn ngừa sự phát bệnh.
7. Có cách nào bảo vệ trẻ trước dịch sởi?
Khi trẻ được khoảng 13 tháng tuổi, bé sẽ được tiêm phòng sởi với hiệu quả bảo vệ lên tới 90 – 95%. Một liều nhắc lại khi trẻ trong độ tuổi 3 – 5 sẽ tăng hiệu quả bảo vệ lên tới 99%.
8. Vắc xin phòng sởi chính là các vi rút sởi được làm mất độc lực?
Các vi rút này được đưa vào cơ thể sẽ kích thích hệ miễn dịch sản xuất kháng thể, đủ sức “chiến đấu” khi gặp các vi rút mạnh hơn.
Theo Cục Y tế dự phòng.
|