Kết quả triển khai Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ MN, học sinh tiểu học vùng DTTS giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn huyện Ngọc Hồi”

Lượt xem:

Đọc bài viết

Với mục tiêu đảm bảo cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học là người dân tộc thiểu số (DTTS) có đủ kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục, tạo tiền đề để các em học tập, tiếp thu kiến thức ở các cấp học tiếp theo, năm 2017, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch thực hiện Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Kon Tum”.

Ảnh minh họa.

Kết thúc Giai đoạn I triển khai Đề án của tỉnh, Ngành giáo dục huyện Ngọc Hồi đã có nhiều giải pháp quyết liệt thực hiện nhằm đảm bảo 100% trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng DTTS có kỹ năng cơ bản sử dụng tiếng Việt.

I. Tình hình triển khai giai đoạn I (2016-2020)

1. Thông tin chung

1.1. Số lượng, quy mô trường lớp, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất và việc tăng cường học liệu, trang thiết bị,…

– Tính đến cuối năm học 2019-2020, toàn huyện có 14 trường tiểu học, 229 lớp, 6692 học sinh trong đó học sinh dân tộc thiểu số là 3985 em, tỉ lệ 59,55 %. Có 14/14 trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. Số trẻ 6 tuổi vào học lớp 1, đạt tỷ lệ 100%; huyện duy trì được kết quả phổ cập giáo dục (PCGD) tiểu học đúng độ tuổi mức độ 3 ở 8/8 xã, thị trấn.

  – Đội ngũ giáo viên toàn ngành tương đối đồng bộ về cơ cấu, tỷ lệ giáo viên đứng lớp đạt 1.4 giáo viên/lớp. 100 % giáo viên có trình độ đào tạo đạt chuẩn và được tạo điều kiện tham gia các lớp nâng cao trình độ hằng năm. Năng lực chuyên môn của đội ngũ khá vững vàng và tương đối đồng đều, có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức tổ chức kỷ luật.

  – Hiện nay toàn ngành có 31 CBQL, trong đó, 100 đạt chuẩn về trình độ đào tạo, trên chuẩn 30/31 (96.8 %). Giáo viên hiện tại có 322 người, trong đó 100 % đạt chuẩn; trên chuẩn 308/322 người (95.7 %).

  – Số phòng học tính đến thời điểm tháng 5/2020 có 237 phòng đạt tỉ lệ 1.03 phòng học/lớp. Trong đó, có 135 phòng học kiên cố, 95 phòng học cấp 4,  có 02 phòng học tạm và 05 phòng học mượn.

– Về cơ bản đảm bảo cho mỗi lớp học có 1 phòng học riêng. Chất lượng phòng học tương đối tốt, các lớp rộng rãi, thoáng mát, khang trang đảm bảo cho việc thực hiện dạy và học.

– Bàn, ghế học sinh đủ chỗ ngồi cho học sinh. Học sinh khuyết tật học hòa nhập được phân chỗ ngồi hợp lý tạo không khí thoải mái cho các em khi đến lớp; có đủ số lượng bàn, ghế giáo viên, bảng lớp theo quy định; Có hệ thống đèn chiếu sáng, quạt điện (quạt trần); có hệ thống tủ đựng hồ sơ, thiết bị dạy học đảm bảo theo quy định.

– 100 % các trường đều có thư viện với đầy đủ sách, vở và đồ đùng dạy-học tối thiểu, trong đó có 10/14 thư viện đạt chuẩn, các trường đều có máy chiếu, thiết bị ân thanh, một số lớp học đã trang bị ti vi lớn để phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập của giáo viên, học sinh được thuận lợi hơn.

– 100 % các trường có hệ thống internet kết nối mạng không dây (wifi) đến tận các lớp học, thuận lợi cho giáo viên truy cập khai thác dữ liệu, học liệu.

– Hệ thống nước sạch đầy đủ, công trình vệ sinh đảm bảo, sạch sẽ; cảnh quan môi trường sư phạm được quan tâm và chỉnh trang thường xuyên tạo môi trường học tập thân thiện, an toàn cho học sinh đến trường.

1.2. Tình hình ban hành kế hoạch, văn bản, chính sách địa phương

Phòng GD&ĐT đã ban hành các văn bản chỉ đạo về tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số (DTTS) giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025, nâng cao chất lượng giáo dục đối với trẻ em vùng DTTS.

1.3. Công tác truyền thông; xã hội hóa và hợp tác quốc tế

– Tuyên truyền các văn bản đến toàn thể CB-GV-NV, phổ biến về mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của Đề án nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các bậc cha mẹ, học sinh, đặc biệt nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên về dạy tiếng Việt cho học sinh  DTTS một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện của đơn vị.

– Triển khai các chuyên mục, chuyên trang trên Trang thông tin điện tử của ngành tại địa chỉ http://pgdngochoi.kontum.edu.vn nhằm hỗ trợ cho các bậc cha, mẹ và cộng đồng trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em DTTS.

– Cung cấp tài liệu để phổ biến kiến thức kỹ năng cơ bản về tăng cường tiếng Việt, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị- xã hội, các bậc phụ huynh và toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục.

– Các đơn vị đã phối hợp với phụ huynh thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh DTTS, đặc biệt huy động trẻ em, học sinh ra lớp, đảm bảo tỉ lệ chuyên cần.

1.4. Các giải pháp đã triển khai nhằm nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số

– Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh DTTS vừa là vấn đề cấp bách, vừa là vấn đề cơ bản, là nền tảng để nâng cao chất lượng giáo dục ở cấp tiểu học nói chung, đối với học sinh DTTS nói riêng. Trong những năm qua, giáo dục tiểu học huyện Ngọc Hồi đã tích cực thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng. Tập trung chủ yếu vào các giải pháp như: Đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học; giao quyền tự chủ cho các trường trong việc điều chỉnh nội dung dạy học; đổi mới phương pháp, hình thức dạy học; tăng cường áp dụng các yếu tố tích cực của mô hình trường học mới (VNEN) vào tổ chức lớp học và các hoạt động giáo dục; dạy học 2 buổi/ngày, tăng thời lượng một số môn học, tăng cường phụ đạo học sinh còn hạn chế về kiến thức, kỹ năng; dạy học môn tiếng Việt lớp 1 theo tài liệu CNGD; xây dựng môi trường tiếng Việt trong và ngoài lớp học; tổ chức nhiều hình thức học tập phong phú nhằm thu hút học sinh đến trường, tăng hứng thú học tập cho học sinh; chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc bàn giao chất lượng học sinh lên lớp trên,… các giải pháp đã mang lại những kết quả rõ rệt. Sau đây là một số giải pháp trọng tâm:

a. Xây dựng môi trường giao tiếp tiếng Việt, trang trí khuôn viên lớp học

– Trang trí lớp học nhằm tạo ra môi trường học tập thân thiện, gần gũi, tích cực cho học sinh cũng là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh DTTS. Tạo cho HS có thói quen và có trách nhiệm với các hoạt động của lớp. Phát huy khả năng tương tác giữa giáo viên với học sinh và học sinh với học sinh. Giúp học sinh sáng tạo, tự tin hơn, biết tự hào về bản thân và những gì mình đạt được qua những sản phẩm học tập được trưng bày trong lớp học.

– Các lớp học được trang trí đẹp, khoa học có tác dụng giáo dục cao trong đó có tác dụng nâng cao năng lực ngôn ngữ tiếng Việt cho các em học sinh DTTS (sơ đồ, nội quy lớp học, xây dựng các góc, như: góc thư viện, góc địa phương, góc thiên nhiên, góc trưng bày sản phẩm, các câu châm ngôn, danh ngôn về giáo dục,…), việc trang trí lớp học do cô, trò cùng với sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh tạo lên.

– Bên ngoài lớp học trang trí các bảng biểu là những câu khẩu hiệu nói lên phương châm, sứ mệnh, tầm nhìn của nhà trường và một số tiểu sử về thân thế, sự nghiệp của các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa gắn liền với tên trường, tên Sao, Chi đội. Ngoài các hình ảnh, ngôn ngữ trang trí lớp học đã góp phần tạo ra môi trường ngôn ngữ tiếng Việt “đậm đặc” cho các em. Nhờ được tương tác thường xuyên với các hình ảnh, ngôn ngữ và các hoạt động “đậm đặc” tiếng Việt như thế mà kiến thức và kỹ năng tiếng Việt của học sinh DTTS được cải thiện qua đó nâng cao chất lượng học tập của các em.

– Bên cạnh đó, việc giao tiếp, học tập của học sinh trong trường học hoàn toàn bằng tiếng Việt, đồng thời tuyên truyền, khuyến khích phụ huynh học sinh thường xuyên sử dụng tiếng Việt khi giao tiếp với con em ở nhà và ở cộng đồng.

b. Xây dựng thư viện thân thiện, thư viện xanh, thư viện lớp học tạo phong trào đọc sách

– Khuyến khích và tạo điều kiện cho các trường xây dựng thư viện thân thiện, để học sinh có nhiều cơ hội đọc sách. Ngoài việc trưng bày các loại sách báo đẹp, hài hòa cuốn hút học sinh tham gia đọc trong thư viện, chỉ đạo các trường đưa sách báo, truyện đọc ra sân trường, xây dựng góc thư viện trong lớp học.

– Sách, báo trong thư viện, ngoài sân trường, trong từng lớp học được nhà trường mua sắm và được giáo viên, học sinh ủng hộ. Sách, báo thường xuyên được trao đổi giữa các lớp, trong thư viện, ngoài sân trường, để tạo hứng thú, khuyến khích học sinh tự chủ động lấy sách, tranh, truyện ra đọc.

– Hàng năm tổ chức ngày hội đọc sách, kể chuyện theo sách từ cấp trường đến cấp huyện.

– Hiệu quả từ thư viện đối với học việc bồi dưỡng văn hóa đọc, nâng cao tri thức, nhất là tri thức và năng lực tiếng Việt cho học sinh DTTS là rất lớn. Ngoài việc học sinh được tiếp cận, rèn luyện thường xuyên với tiếng Việt nâng cao kỹ năng đọc, viết, giao tiếp, góp phần tích cực trong việc nâng cao tỷ lệ đi học chuyên cần, nâng cao chất lượng học tập của học sinh và tăng cường vốn tiếng Việt cũng như khả năng sử dụng tiếng việt cho các em, đồng thời tạo cơ hội cho học sinh được tiếp cận với tri thức khoa học một cách tích cực, được vui chơi, khám phá… phù hợp với nhu cầu.

c. Tổ chức các hoạt động Đội, sao Nhi Đồng gắn với các hoạt động ngoài giờ lên lớp (NGLL)

– Phối hợp với Hội Đồng Đội huyện chỉ đạo các đơn vị trường học đưa các trò chơi dân gian vào chương trình sinh hoạt Đội và sao Nhi đồng. Tổng phụ trách đội cùng với giáo viên chủ nhiệm các lớp xây dựng kế hoạch chọn lựa nhiều trò chơi liên quan đến việc hình thành và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh dân tộc (như các trò chơi gắn với các bài đồng dao; thi hát dân ca ba miền, giải câu đố, dịch mật thư,…).

– Qua việc sinh hoạt với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, tạo sân chơi bổ ích, lôi cuốn các em thích thú đến trường và tạo điều kiện để bổ sung thêm vốn tiếng Việt cho các em.

 d. Chỉ đạo và giao quyền tự chủ cho các nhà trường trong việc chủ động, linh hoạt thực hiện có hiệu quả chương trình kế hoạch dạy học, xây dựng kế hoạch phụ đạo, bồi dưỡng HS

– Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết việc thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và các hoạt động giáo dục trong trường tiểu học;

– Xây dựng và thực hiện hiệu quả kế hoạch dạy học 2 buổi/ngày. Xác định nội dung, chương trình dạy cho buổi thứ hai (buổi chiều). Buổi thứ hai dùng để giãn tiết, tổ chức phụ đạo kiến thức cho học sinh còn hạn chế, bồi dưỡng kiến thức nâng cao cho học sinh năng khiếu hoặc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoại khóa, hoạt động giáo dục trải nghiệm khác.

– Chỉ đạo các trường giao quyền chủ động cho giáo viên trong việc xây dựng kế hoạch dạy học. Điều chỉnh, tích hợp hoặc tăng thời lượng nội dung dạy học; phân luồng đối tượng học sinh, tổ chức dạy học theo hướng cá thể hóa, chấp nhận sự khác biệt trong lớp học với phương châm “đi chậm mà chắc”, “học đến đâu chắc đến đó”.

 – Chỉ đạo giáo viên rà soát nội dung dạy học trong sách giáo khoa (SGK), tài liệu học tập đề xuất với tổ chuyên môn thảo luận kế hoạch dạy học chủ động, linh hoạt điều chỉnh, tinh giảm, lược bớt những nội dung trùng lặp giữa các môn học và hoạt động giáo dục để phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học trên nguyên tắc đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; thay đổi hoặc gạt bỏ những nội dung bài học chưa phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện thực tế tại từng vùng, miền.

– Khuyến khích giáo viên mạnh dạn thay đổi những ngữ liệu, nội dung một số bài Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn, một số bài toán giải có lời văn trong SGK còn xa lạ, khó hiểu đối với học sinh dân tộc thiểu số (DTTS).

– Bổ sung, cập nhật những thông tin mới phù hợp thay cho những thông tin cũ, lạc hậu; không dạy những nội dung, bài tập, câu hỏi trong SGK quá mức độ cần đạt về kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học hiện hành.

– Căn cứ nội dung các bài học đối với từng môn/lớp ở từng chủ đề, rà soát nội dung các bài học tương ứng với chủ đề đó để sắp xếp lại một số bài học; khuyến khích giáo viên tích cực, chủ động thực hiện dạy học tích hợp các nội dung của môn học, các bài học theo từng tiết sang dạy học theo chủ đề phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện thực tế của nhà trường.

– Dạy học lồng ghép, tích hợp các nội dung giáo dục cần thiết nhưng không thành một môn học (như các nội dung về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, năng lượng, biến đổi khí hậu, quyền và bổn phận trẻ em, bình đẳng giới, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản, an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm, văn học, lịch sử, địa lí địa phương…) vào nội dung của từng môn học hoặc các hoạt động giáo dục sao cho nhẹ nhàng, phù hợp và đạt hiệu quả.

đ. Dạy học môn tiếng Việt lớp 1 theo tài liệu Công nghệ giáo dục

– Bắt đầu từ năm học 2011-2012 cho đến nay, toàn huyện triển khai dạy học môn tiếng Việt theo tài liệu Công nghệ giáo dục ở tất cả các trường tiểu học. Dạy và học tiếng Việt lớp 1 theo tài liệu Công nghệ giáo dục đã làm thay đổi phương pháp dạy của giáo viên và phương pháp học của học sinh, đấy cũng chính là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng môn tiếng Việt cho học sinh, nhất là học sinh vùng DTTS. Khi học xong chương trình lớp 1 học sinh không những đọc thông viết thạo mà còn nắm rất chắc luật chính tả, nắm vững hệ thống cấu trúc ngữ âm tiếng Việt, đồng thời giúp các em phát triển tư duy và biết cách làm việc trí óc, phát huy năng lực tối ưu của từng cá nhân học sinh, khắc phục triệt để các lỗi sai vùng miền, địa phương và nhất là học sinh DTTS không còn thêm bớt dấu thanh khi đọc.

– Cách học TV1 CGD của các em là học cái gì là làm ra cái đó, đây là quan điểm rất phù hợp trong đổi mới giáo dục tiểu học hiện nay, dạy học không chỉ cung cấp kiến thức mà còn rèn luyện, phát triển phẩm chất, năng lực ở mỗi học sinh.

e. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa (NGLL)

Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện chỉ đạo các đơn vị trường học, đồng thời đã tổ chức nhiều hoạt động giáo dục ngoại khóa để lôi cuốn học sinh tham gia, tạo sân chơi lành mạnh cho các em, là nơi các em phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, rèn luyện kỹ năng giao tiếp, tinh thần hợp tác, qua đó cũng khơi dậy ở các em học sinh dân tộc lòng ham thích tiếng Việt, yêu quý trân trọng bản sắc văn hóa dân tộc, tạo không khí vui tươi “Học mà chơi, chơi mà học” góp phần xây dựng trường học thân thiện, đồng thời phát hiện năng khiếu, khả năng nghe, nói, đọc, viết, khả năng diễn thuyết của học sinh dân tộc thiểu số. Như ngày hội “Giao lưu tiếng việt cho học sinh dân tộc thiểu số”; “Ngày hội đọc sách”; Hội thi “Kể chuyện theo sách”; “Kể chuyện đạo đức Bác Hồ”; Tham quan, dã ngoại,… Qua hoạt động giao lưu giúp các em học sinh dân tộc thiểu số hình thành kĩ năng sử dụng tiếng Việt và tình yêu tiếng Việt.

1.5. Công tác nâng cao năng lực đội ngũ

– Tổ chức cho CBQL, GV toàn ngành nghiên cứu Quyết định số 1008/QĐ-TTg, ngày 02 tháng 06 năm 2016 của Thủ tướng chính  phủ về tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số;

– Căn cứ vào chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ năm học và các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo và Kế hoạch số 215/KH-UBND ngày 23/01/20017 về triển khai Đề án tăng cường Tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng DTTS giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Trên cơ sở đó, Phòng GD&ĐT huyện tham mưu UBND huyện Ngọc Hồi phê duyệt Kế hoạch số 19/KH-PGDĐT về việc thực hiện Đề án “Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng DTTS” giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn huyện.

– Triển khai đến từng CBQL, giáo viên, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của Đề án nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các bậc cha mẹ, học sinh, đặc biệt nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên về dạy tiếng Việt cho học sinh  DTTS một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện của từng nhà trường. Hàng năm cử cán bộ, giáo viên tham dự các lớp tập huấn, các buổi hội thảo chuyên môn về tăng cường Tiếng Việt cho học sinh DTTS do Sở tổ chức; đồng thời mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn, các chuyên đề hội thảo chuyên môn cho 100% cán bộ quản lý, giáo viên nhằm cụ thể hóa sát với tình hình và yêu cầu của địa phương. Qua đó đội ngũ đã thông về tư tưởng, hiểu về mục đích và từng bước thuần thục về phương pháp, kỹ năng.

2. Kết quả đạt được

Qua việc áp dụng những giải pháp nêu trên vào quá trình giảng dạy nhằm tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn huyện.

– Hàng năm, 100 % học sinh tiểu học người DTTS được tập trung tăng cường tiếng Việt; các mô hình tăng cường tiếng Việt hiệu quả được mở rộng, xác định được khung chương trình, thời lượng dạy học tăng cường, yêu cầu cần đạt hợp lý và đánh giá được.

– 100 % cán bộ quản lý, giáo viên cấp tiểu học vùng DTTS được bồi dưỡng về công tác quản lý, phương pháp, kỹ năng tổ chức các hoạt động tăng cường tiếng Việt; được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số để phục vụ công tác.

– Kết quả dạy và học môn tiếng Việt trong nhiều năm học gần đây của bậc tiểu học được duy trì khá bền vững. 100 % học sinh sử dụng tương đối tốt ngôn ngữ tiếng Việt và sử dụng thường xuyên trong giáo tiếp, sinh hoạt tại công đồng.

– Hàng năm, huy động 100 % học sinh 6 tuổi ra lớp; 99,6 % học sinh lớp 5 được đánh giá hoàn thành chương trình tiểu học.

– CBQL, giáo viên đã có những chuyển biến tích cực về nhận thức, có kĩ năng tổ chức các hoạt động cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực và có thể áp dụng trong các môn học một cách hiệu quả.

– Giáo viên đã linh hoạt sử dụng hiệu quả các tiết tăng cường và giãn tiết để tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số. Từ đó, giáo viên đã nắm chắc hơn trình độ, điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh, nhận được nhiều thông tin phản hồi từ phía học sinh, qua đó điều chỉnh kịp thời cách dạy, cách tổ chức và hướng dẫn học sinh học tập tốt hơn. Nhiều giáo viên đã có nhiều cố gắng, sáng tạo trong việc bồi dưỡng tiếng Việt phù hợp với năng lực của từng học sinh, phù hợp với điều kiện thực tế của lớp, của trường

– Học sinh đã có vốn tiếng Việt phong phú, hiểu được nội dung, yêu cầu của môn học, bài học. Ngoài ra, qua việc tăng cường tiếng Việt giúp học sinh phát huy tinh thần trách nhiệm, rèn được các kĩ năng giao tiếp, tính tự tin cho học sinh, nhất là học sinh DTTS. Nhiều học sinh có khả năng quản lý điều hành lớp, nhóm tốt, các em năng động hơn trong học tập, ham thích, chủ động tìm tòi kiến thức, làm cho tiết học sôi nổi, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

3. Khó khăn và giải pháp

3.1. Khó khăn

– Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn; tỷ lệ đói nghèo còn cao. Trình độ dân trí ở vùng sâu, vùng xa còn thấp; còn một bộ phận cha mẹ học sinh (CMHS) ít quan tâm đến học tập của con em mình, nhiều CMHS chỉ trông chờ ỉ lại vào các  chế độ chính sách hỗ trợ của nhà nước, khoán trắng việc giáo dục con em cho nhà trường.

– Việc đầu tư cơ sở vật chất, chế độ chính sách cho giáo viên trong những năm qua đã có sự chuyển biến song còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được điều kiện thực tế (thiếu các phòng học chức năng, trang thiết bị xuống cấp chưa được bổ sung, sửa chữa kịp thời nhất là những trang thiết bị hiện đại; chế độ đãi ngộ cho nhà giáo, chế độ hỗ trợ chi phí học tập, hỗ trợ bữa ăn trưa cho học sinh tại trường không còn,…)

– Sự bất đồng ngôn ngữ giữa giáo viên và học sinh; việc học bằng tiếng Việt tại các trường tiểu học của học sinh người dân tộc thiểu số với tư cách là ngôn ngữ thứ hai. Vốn tiếng Việt ít ỏi nên việc sử dụng tiếng Việt trong học tập và giao tiếp của học sinh gặp nhiều khó khăn, đây là rào cản lớn đối với học sinh DTTS, là yếu tố ảnh hưởng quyết định đến chất lượng giáo dục học sinh trong trường phổ thông nói chung, trường tiểu học nói riêng.

3.2. Giải pháp

– Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, đặc biệt là cha mẹ học sinh đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh DTTS;

– Tham mưu, phối hợp chặt chẽ với các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức, đoàn thể ở địa phương thực hiện có hiệu quả việc vận động học sinh DTTS đi học, nâng cao tỷ lệ chuyên cần, hạn chế học sinh nghỉ học.

– Duy trì việc tổ chức dạy học 2 buổi/ngày, tích cực đổi mới công tác quản lý, công tác dạy và học; đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, tăng cường các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm nhằm nâng cao hứng thú học tập ở học sinh.

II. Định hướng triển khai các hoạt động tăng cường tiếng việt cho học sinh tiểu học vùng DTTS giai đoạn II (2020-2025)

1. Công tác chỉ đạo

– Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện xây dựng kế hoạch từng năm để tổ chức thực hiện, triển khai đến từng đơn vị; tham mưu với UBND huyện cấp kinh phí để hỗ trợ, tăng cường tài liệu, học liệu và các trang thiết bị cho các cơ sở GDTH, đặc biệt đối với vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn.

– Tổ chức hiệu quả các lớp tập huấn, bồi dưỡng CBQL, GV; quản lý hoạt động bồi dưỡng thường xuyên và tự bồi dưỡng. Phòng Giáo dục và Đào tạo, tổ CBQL, GV cốt cán thường xuyên kiểm tra, tư vấn, hỗ trợ tăng cường tiếng Việt cho trẻ em DTTS.

– Kiểm tra, giám sát, tổng hợp đánh giá kết quả hàng năm và giai đoạn; tổ chức sơ kết, tổng kết, báo cáo UBND huyện và Sở Giáo dục và Đào tạo.

2. Triển khai các giải pháp tổ chức hoạt động tăng cường tiếng Việt

2.1. Công tác tuyên truyền; tham mưu, phối hợp; huy động trẻ ra lớp

– Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người DTTS nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, CBQL giáo dục, GV, các bậc cha mẹ học sinh và cộng đồng đối với việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng DTTS. Hoạt động này tác động tích cực nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao dân trí, chất lượng nguồn nhân lực.

– Các cơ sở GDĐT chủ động phối hợp và làm nòng cốt tuyên truyền, hỗ trợ các bậc cha, mẹ trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em qua việc tạo cơ hội môi trường giao tiếp, tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ… Lựa chọn tài liệu, bồi dưỡng tiếng Việt cho các bậc cha, mẹ là người DTTS, cộng đồng vùng đồng bào DTTS để xây dựng môi trường tiếng Việt tại gia đình và cộng đồng.

– Củng cố và tăng cường kết quả huy động trẻ DTTS đến trường và học 2 buổi/ngày để trẻ có thời gian, cơ hội được tăng cường tiếng Việt. Tận dụng tốt thời gian tăng thêm để tổ chức các hoạt động giáo dục trong đó có tăng cường tiếngViệt.

– Tăng cường công tác tham mưu với cấp ủy đảng, chính quyền; phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể ở địa phương, đẩy mạnh xã hội hóa để huy động nguồn lực hợp pháp nhằm tổ chức thực hiện tốt kế hoạch tăng cường tiếng Việt đối với trẻ em DTTS; vận động phụ huynh huy động tối đa trẻ em trong độ tuổi tiểu học ra lớp, thực hiện tốt việc duy trì sĩ số, hạn chế tình trạng trẻ nghỉ học, đi học không chuyên cần.

2.2. Xây dựng môi trường tăng cường tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số. Tăng cường học liệu, trang thiết bị dạy học, đồ dùng dạy học, xây dựng môi trường tiếng Việt trong các cơ sở giáo dục, gia đình và cộng đồng vùng dân tộc thiểu số

– Hiệu trưởng các đơn vị trường học chỉ đạo rà soát việc xây dựng môi trường tiếng Việt cho trẻ em người DTTS trong và ngoài lớp học; chủ động sử dụng nguồn kinh phí thường xuyên chi cho giáo dục, huy động các nguồn hỗ trợ, tài trợ, nguồn xã hội hóa, … để mua sắm tài liệu học tập, giảng dạy và bổ sung, thay thế, trang thiết bị dạy học, đồ dùng, phần mềm dạy học tiếng Việt phục vụ việc tăng cường tiếng Việt.

– Phòng Giáo dục và Đào tạo sẽ tham mưu với UBND huyện quan tâm hỗ trợ đầu tư nguồn tài liệu, học liệu cho giáo viên và học sinh;

– Tăng cường việc sử dụng đồ dùng trực quan, sử dụng hiệu quả phương tiện hỗ trợ các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết nhằm đảm bảo chất lượng về các kỹ năng này bền vững.

2.3. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quán lý, giáo viên của các cơ sở giáo dục có trẻ em người DTTS

– Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho 100% CBQL, GV dạy trẻ em người DTTS về công tác quản lý, phương pháp, kỹ năng tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục để tăng cường tiếng Việt phù hợp với đối tượng trẻ em vùng DTTS.

– Giáo viên chưa biết hoặc biết ít tiếng DTTS nơi công tác phải tự học, tự rèn luyện (học thông qua học sinh, phụ huynh, đồng nghiệp, qua cồng đồng,…); các đơn vị cần đưa nội dung này vào một trong những tiêu chí đánh giá, xếp loại giáo viên, CBQL hàng năm (thay cho yêu cầu về ngoại ngữ trong đánh giá Chuẩn nghề nghiệp). Đồng thời, yêu cầu giáo viên người DTTS, trong quá trình dạy học và các hoạt động giáo dục tại trường, không quá lạm dụng tiếng mẹ đẻ của trẻ.

– Đưa nội dung tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người DTTS vào chương trình bồi dường thường xuyên, bồi dưỡng hè cho đội ngũ CBQL, GV hằng năm.

2.4. Tăng cường thời lượng dạy tiếng Việt cho trẻ và học sinh tiểu học; thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp tăng cường tiếng Việt trong các cơ sở giáo dục tiểu học

– Thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục tiểu học. Trong các yêu cầu về phát triển đối với trẻ, đặc biệt trẻ 6 tuổi mới vào lớp 1, cần dành nhiều thời gian để hình thành và phát triển ở trẻ những kỹ năng nghe, nói, tiền đọc, tiền viết, cách cầm bút, vở, tư thế ngồi viết;… Thông qua các hoạt động sinh hoạt, học tập, lao động, qua các buổi tham quan.

– Trên cơ sở tài liệu tăng cường tiếng Việt, các đơn vị xây dựng kế hoạch, triển khai tốt các chuyên đề “tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở tiểu học” nhằm đảo đảm duy trì và phát triển sáng tạo môi trường tiếng Việt: thực hiện tuần làm quen, giao tiếp, chuẩn bị tiếng Việt (tuần 0); thực hiện tích hợp tăng cường tiếng Việt trong các môn học chính khóa, các hoạt động giáo dục.

– Quan tâm xây dựng môi trường văn hóa đọc, phát triển thư viện nhà trường; trang trí trường lớp; giao lưu tiếng Việt, thi Trạng nguyên tiếng Việt, kể chuyện theo sách, kể chuyện đạo đức Bác Hồ và buổi chào cờ đầu tuần,…; quan tâm thực hiện đồng bộ ở điểm trường chính và các điểm trường lẻ.

– Tăng cường các hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh DTTS. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, sử dụng linh hoạt các tiện ích, phần mềm, tư liệu, hình ảnh để nâng cao hiệu quả dạy học tiếng Việt.

– Rà soát chương trình, lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng, điều kiện của từng địa bàn, từng điểm trường; tiếp tục tổ chức dạy học Tiếng Việt 1 hiệu quả để học sinh nắm chắc kiến thức tiếng Việt ngay từ lớp 1.

2.5. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện vùng dân tộc thiểu số

– Tập trung thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục trường học gắn liền với thực tiễn, học đi đồi với hành phù hợp với vùng dân tộc thiểu số.

– Tổ chức thực hiện các hoạt động tăng cường tiếng Việt, dạy học tiếng Việt hiệu quả từ đầu cấp học; tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Chú trọng dạy lý tưởng, truyền thống, đạo đức, kỹ năng sống; phát huy tính tích cực, chủ động, năng lực sáng tạo của học sinh tiểu học.

– Tăng cường các điều kiện để nâng cao chất lượng thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới; thực hiện hiệu quả các hoạt động chăm sóc, giáo dục theo quan điểm “phát triển năng lực”, tạo cơ hội cho trẻ được khám phá, trải nghiệm, sáng tạo qua các hoạt động “Học mà chơi, chơi mà học”. Tích hợp các nội dung giáo dục kỹ năng xã hội, kĩ năng sống, giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật phù hợp; đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ.

2.6. Nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục

– Phối hợp với chính quyền địa phương, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ xây dựng các câu lạc bộ đọc sách tại thôn, làng; giao lưu các hoạt động văn hóa, văn nghệ, tổ chức các trò chơi học tập; thi kể chuyện; tham gia ngày hội nói tiếng Việt; giao lưu tiếng Việt của các em; hướng dẫn cha mẹ tạo dựng môi trường tiếng Việt tại nhà và tăng cường giao tiếp với trẻ.

– Phối hợp với hội cha mẹ, già làng sưu tầm các tác phẩm văn học dân gian (truyện, thơ, câu đổ, bài hát,…) của người DTTS để sử dụng trong công tác giáo dục tại lớp; khuyến khích phụ huynh, các tổ chức đóng góp đồ dùng, đồ chơi, vật dụng sinh hoạt địa phương để sử dụng trong hoạt động tăng cường tiếng Việt.

III. Kiến nghị – đề xuất

1. Chế độ chính sách

– Về biên chế học sinh/lớp: Vì học sinh DTTS gặp nhiều khó khăn trong đó khó khăn về ngôn ngữ tiếng Việt là rất lớn nên đề nghị cần có quy định biên chế lớp riêng cho những trường vùng dân tộc thiểu số mà tỉ lệ học sinh DTT số chiếm trên 50% chỉ tối đa 25 học sinh/lớp (Điều lệ trường tiểu học quy đinh 35 học sinh/lớp). Vì trên 25 học sinh là rất khó khăn đối với giáo viên trong việc dạy học và nâng cao chất lượng học sinh (Hoặc cũng có thể áp dụng tỷ lệ không quá 25 học sinh/ lớp đối với lớp 1,2 vùng DTTS).

– Đối với giáo viên: Có chính sách ưu đãi đối với giáo viên dạy học vùng DTTS.

– Đối với học sinh:  Cần duy trì các chính sách hỗ trợ tài chính cho học sinh vùng sâu, vùng xa, học sinh DTTS nhằm tạo điều kiện học tập tốt hơn cho các em.

2. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, học liệu

– Cần có chương trình dạy tiếng Việt linh hoạt hơn, phù hợp cho đối tượng học sinh DTTS theo hướng tăng về thời lượng và tăng thực hành.

– Tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị đồ dùng dạy học.

IV. Kết luận

– Việc nâng cao chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều yếu tố song việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh là một yếu tố hết sức quan trọng cần tập trung tạo môi trường Tiếng Việt cho học sinh DTTS ở mọi lúc, mọi nơi.

– Để các em có được điều kiện học tập và nâng cao vốn tiếng Việt ở trường, gia đình và cộng đồng thì trước hết CBQL, các tổ chức đoàn thể phải có kế hoạch hoạt động cụ thể; đội ngũ giáo viên phải thực sự nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần đổi mới, thiết kế những tiết học sôi nổi, hấp dẫn, thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, kết hợp chặt chẽ với phụ huynh nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em thường xuyên sử dụng tiếng Việt trong việc giao tiếp ở nhà và sinh hoạt tại cộng đồng.

– Gia đình và các tổ chức đoàn thể ở thôn luôn là môi trường thuận lợi trong việc giúp học sinh làm quen và bồi dưỡng vốn tiếng Việt. Đặc biệt trong dịp hè, tổ chức Đoàn nên thường xuyên tạo cho các em những sân chơi giúp cho các em có được những ngày hè vui tươi, bổ ích và tạo điều kiện nâng cao vốn tiếng Việt cho học sinh.

– Vì vậy, ngoài việc xây dựng môi trường ngôn ngữ, tổ chức nhiều hoạt động tăng cường Tiếng Việt ở lớp, ở trường cần tư vấn, phối hợp với cha mẹ học sinh, thôn làng tạo điều kiện để các em được giao tiếp tiếng Việt thường xuyên hơn.

Trên đây là một số giải pháp mà ngành giáo dục huyện Ngọc Hồi đã triển khai, thực hiện trong thời gian qua và đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của huyện nhà, nhất là tại các vùng có học sinh DTTS.

Minh Tuấn (Phòng GDĐT Ngọc Hồi).