Trường TH Đắk Dục: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh (tiểu học) dân tộc thiểu số

Lượt xem:

Đọc bài viết

1. Những thuận lợi và khó khăn của học sinh dân tộc thiểu số khi học tiếng Việt.

1.1.Thuận lợi

Trong những năm gần đây trẻ em 5 tuổi người dân tộc thiểu số được chuẩn bị về tiếng Việt và một số kĩ năng sống để các em sẵn sàng đi học lớp 1. Do vậy, không có trường hợp học sinh 6 tuổi đến trường hoàn toàn không biết tiếng phổ thông.

Đại đa số trẻ em  được đi học đúng độ tuổi, được chăm sóc, được tạo điều kiện để học tập. Chương trình tăng cường tiếng Việt đã nâng cao một cách hiệu quả kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh dân tộc thành thạo tiếng mẹ đẻ và có thể sử dụng tiếng Việt ngày càng nhiều. Các em có thể hỗ trợ nhau trong quá trình học tập với vai trò tương tự như nhân viên trợ giảng. Đây là sự hỗ trợ tích cực đối với học sinh dân tộc trong quá trình học tiếng Việt.

Ảnh minh hoạ.

1.2. Khó khăn

Về phía học sinh

Phần đa học sinh dân tộc  đều sống  ở  vùng xa xôi hẻo lánh, đi lại khó khăn, mức sống, vật chất nghèo, nhận thức xã hội thấp; nhiều người trong cộng đồng không quan tâm tới việc học tập của trẻ em, trình độ học vấn của phụ huynh học sinh còn thấp, thậm chí có người không biết tiếng phổ thông.

 Học sinh dân tộc gặp nhiều hạn chế về môi trường sử dụng tiếng Việt: những người xung quanh các em giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ là chủ yếu ( cùng hoặc khác ngôn ngữ với các em).

Ở cộng đồng, các em dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp, đến trường các em phải học bằng ngôn ngữ thứ hai là tiếng Việt. Lời nói của trẻ trước khi đến trường tiểu học có tính chất tình huống, là dang ngôn ngữ hội thoại được tạo ra trong hoạt động vui chơi và các hoạt động khác. Khi đến trường, các em bắt đầu làm quen với lời nói độc thoại. Tiếp xúc với việc đọc, viết, học sinh tiếp cận với một phong cách ngôn ngữ mới – phong cách ngôn ngữ viết với những đặc điểm riêng và yêu cầu riêng; cách bắt đầu tham gia vào phạm vi giao tiếp mới có tính xã hội khác với giao tiếp gia đình. Do vậy, các em thường mắc lỗi phong cách trong sử dụng lời nói.

Như vậy, có thể nói học sinh dân tộc không chỉ gặp khó khăn khi dùng tiếng việt để trao đổi, chia sẻ thông tin với bạn bè và thầy cô, mà còn rất khó khăn khi nghe hiểu lời thầy cô hay bạn khi đọc hiểu các bài học trong sách. Đối với các em, luyện viết là điểu hết sức khó, không chỉ vì vốn sống, vốn tiếng Việt của các em quá ít mà còn vì tiếng mẹ đẻ của các em không có chữ viết, và đối với các em, viết là hành động khó từ thao tác tới nội dung biểu đạt.

Về phía giáo viên

 Nhiều giáo viên không biết  tiếng dân tộc để hỗ trợ học sinh học tập và giao tiếp. Mặt khác ở một số trường  thuộc nhiều dân tộc khác nhau trong cùng một lớp nên khó khăn trên lại càng tăng lên, vì giáo viên không thể sử dụng, biết được tiếng mẹ đẻ của tất cả các em. Sự bất đồng về ngôn ngữ giữa giáo viên và dân cư nơi trường đóng đã hạn chế kết quả vận động gia đình và cộng đồng tham gia vào quá trình giáo dục như  huy động trẻ em đi học và đi học đều chưa hiệu quả; do đó hạn chế kết quả học tập của học sinh.

Về nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học

Chương trình tiếng Việt là chương trình chung cho cả nước, thực hiện theo một trình độ chuẩn quốc gia; SGK chủ yếu soạn cho học sinh học tiếng việt với tư cách ngôn ngữ 1 (dành cho học sinh người kinh là chủ yếu) và cũng có những học sinh học môn Tiếng việt và học tiếng việt với tư cách là ngôn ngữ 2.

Một số nội dung, yêu cầu trong sách giáo khoa chưa thật gần gũi và phù hợp khả năng và thực tế và cuộc sống của học sinh dân tộc, có những yêu cầu khó đạt với các em.

Phương pháp dạy học tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ  thứ nhất) của chương trình tiếng việt hiện hành chưa hoàn toàn thích hợp với đối tượng học sinh dân tộc chưa biết tiếng Việt hoặc biết rất ít (học tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai).

2. Một số giải pháp để tăng cường tiếng việt cho học sinh dân tộc thiểu số.

2.1. Mục tiêu của giải pháp

Nhà trường được dạy và học theo mô hình trường học mới, nhẹ nhàng, phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số nhằm tăng cường Tiếng Việt một cách hiệu quả qua các hoạt động dạy và học hàng ngày góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, giảm thiểu tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học trong những năm học qua.

2.2 Vận dụng các phương pháp dạy học tiếng Việt phù hợp với học sinh dân tộc

Để việc dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc một cách hiệu quả, không chỉ cần phối hợp sử dụng các phương pháp một cách linh hoạt và hợp lí, mà còn cần chú ý vận dụng các phương pháp cho phù hợp với mục tiêu và nội dung đặc trưng của từng phân môn.

Sự lựa chọn phương pháp dạy học cần được xuất phát từ mục tiêu nội dung của bài học. khi chuẩn bị bài, giáo viên cân đối tiếng Việt và vốn từ của học sinh với nội dung bài học trong sách giáo khoa để quyết định giữ nguyên bài học như sách giáo khoa hay điểu chỉnh (sau đó dự kiến phương án điều chỉnh thực hiện điều chỉnh nội dung bài học).

Giáo viên cần xác định phương pháp dạy học ngay từ khi chuẩn bị bài, cần lưu ý phối hợp các phương pháp dạy học tiếng Việt thường được sử dụng với các phương pháp dạy học tiếng phổ thông cho học sinh dân tộc.

Thứ nhất,  sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ khi cần phân tích một hiện tượng nhôn ngữ  cụ thể để học sinh có thể hiểu nhiều hiện tượng khác cùng loại. Các thao tác phân tích cần đơn giản, dễ thực hiện, thậm chí có thể đơn giản tới mức HS không cần lý thuyết vẫn phân tích và hiểu bản chất của hiện tượng một cách tự nhiên (ví dụ, phân tích ngôn ngữ trong các bài Học vần).

Phương pháp phân tích ngôn ngữ cũng có thể thực hiện khi học sinh có ý thức nhất định để khái quát từ những hiện tượng cụ thể thành các quy luật, ví dụ phân tích cấu tạo tiếng, cấu tạo từ, cấu tạo hai phần của câu đơn đầy đủ thành phần.

Với yêu cầu rút ra một hình mẫu ngôn ngữ, cũng nên dung phương pháp phân tích ngôn ngữ. Ví dụ giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích câu mẫu để các em nhận ra cấu trúc của một lá đơn, từ đó có thể dựa vào mẫu để thực hành viết đơn.

Với học sinh dân tộc chỉ yêu cầu phân tích các hiện tượng ngôn ngữ ở mức đơn giản. Không nhất phải yêu cầu HS rút ra các thông tin cần thiết: người khái quát các hiện tượng cụ thể thành quy tắc, quy luật có thể là giáo viên; học sinh quan sát các hoạt động của giáo viên để tiếp nhận và hiểu thông tin của bài sau khi giáo viên phân tích ngôn ngữ.

Thứ hai, sử dụng phương pháp giao tiếp ở những nội dung có thể chuyển biến thành hoạt động hỏi đáp, tương tác giữa nhiều người. Hoạt động giao tiếp có thể giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, cũng có thể giao tiếp giữa các học sinh với nhau. Với học sinh dân tộc nên bắt đầu từ hoạt động giao tiếp (mẫu) giữa giáo viên và học sinhh, sau đó các học sinh giao tiếp với nhau theo mẫu. Cần hướng dẫn học sinh luân phiên đổi vai trò trong quá trình giao tiếp để các em có thể thực hiện nhiều lần trong một thời lượng có hạn.

Trong quá trình giao tiếp, qua các câu hỏi đáp cụ thể, giáo viên cần tạo những tình huống giao tiếp sinh động, cụ thể, gần gũi với kinh nghiệm sống của học sinh, tạo điều kiện để các em được thực hành. Chú ý sử dụng các câu hỏi có tác động phát triển vốn từ và kiến thức  ngữ pháp cho học sinh , không nên tạo ra những câu chỉ yêu cầu học sinh trả lời “có” hoặc “không”.

Thứ ba, hhi dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc, phương pháp luyện tập theo mẫu cần được thực hiện trong suốt quá trình dạy học. Cho dù giao tiếp hay phân tích ngôn ngữ thì học sinh đều phải quan sát mẫu và thực hiện theo mẫu. Thuận tiện, giáo viên làm mẫu và yêu cầu học sinh lặp lại mẫu, sau đó các em phải phân tích ngôn ngữ những ngữ liệu mới tương tự ngữ liệu mẫu và thực hành giao tiếp theo mẫu trên những tình huống mới tương tự tình huống mẫu.

Nên chú ý rằng, trong quá trình chuẩn bị bài, giáo viên cần tính đến việc chuyển hóa phương pháp dạy học cần thiết trước giờ học theo những hình thức dạy học đã dự kiến.

2.3. Nội dung và cách thức thực hiện những giải pháp

a. Tạo không khí tiết học sôi nổi, nhẹ nhàng, hấp dẫn

 Học sinh là người dân tộc thiểu số vốn dĩ rất nhút nhát, ngại giao tiếp với bạn bè và thầy cô giáo. Nhiều em khi thầy cô gọi đứng dậy trả lời chỉ đứng và im lặng vì hoặc là không hiểu được câu hỏi hoặc là không tự tin với những câu trả lời bằng tiếng phổ thông của mình do vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế.  Tuy tài liệu hướng dẫn học có phát huy năng lực lực tự học của học sinh nhưng nhiều giáo viên vẫn còn ôm đồm, “tham”, chạy đua với thời gian, tìm mọi cách để làm sao truyền đạt, chuyển tải hết những kiến thức trong sách giáo khoa trong thời gian của 1 tiết học. Do đó tiết học thường rơi vào tình trạng hối hả nhưng trầm lặng, nặng nề, khô khan và thường diễn ra theo hướng một chiều. Vì vậy, muốn tiết dạy đạt hiệu quả cần tạo ra một không khí thật nhẹ nhàng, hấp dẫn. Đây là giải pháp đặc trưng trong quá trình giảng dạy đối với học sinh dân tộc thiểu số.

Hiểu được tâm lý của học sinh dân tộc thiểu số, nhà trường đã có những chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh và nhiều giáo viên ở trường  đã áp dụng những phương pháp phù hợp tùy theo các môn học nhưng đều chú trọng đến những yếu tố vừa truyền đạt kiến thức của bài học đồng thời tăng cường tiếng Việt thông qua những trò chơi ở tất cả các môn học (chủ yếu là các trò chơi về ngôn ngữ, trò chơi trí tuệ sử dụng ngôn ngữ) như: Sử dụng một số câu ca dao, thành ngữ, bài đồng dao để cho học sinh chơi trò chơi trong tiết học như kiểm tra bài cũ…; Đóng vai. Đóng vai là một trong những phương pháp gây được hứng thú trong học tập cho học sinh (học mà chơi, chơi mà học), rèn tính tự tin, tinh thần đoàn kết đặc biệt đây cũng là điều kiện tốt để tăng cường tiếng Việt cho học sinh thông qua hình thức học tập theo nhóm (Theo mô hình trường học mới).

Với những kết quả đã đạt được trong quá trình thực hiện chương trình lớp học mới trong những năm vừa qua mà  nhà trường đã áp dụng, nhiều em học sinh dân tộc thiểu số ở đây đã trở nên mạnh dạn, tự tin, vốn tiếng Việt của các em đã được cải thiện rất đáng kể. Các em đã có khả năng tự đặt ra những câu hỏi, đưa ra những ý kiến của mình. Việc giao tiếp của các em cũng dễ dàng hơn. đặc biệt tạo điều kiện để các em bổ sung vốn tiếng Việt một cách hiệu quả.

b. Bồi dưỡng những học sinh thành thạo tiếng Việt để làm “trợ giảng” cho giáo viên

Những năm trước đây, dự án dân tộc ít người đã hỗ trợ kinh phí để hợp đồng cho mỗi điểm trường 1 nhân viên hỗ trợ giáo viên là người dân tộc thiểu số nhằm giúp đỡ giáo viên trong việc “phiên dịch”, hướng dẫn, làm quen giúp cho học sinh hiểu được những yêu cầu của giáo viên và ngược lại nhằm nâng cao chất lượng trong quá trình giảng dạy.

Nhiều giáo viên nhà trường vì không biết tiếng dân tộc nên gặp khó khăn trong quá trình giảng dạy nhất là đối với học sinh lớp Một và lớp Hai. Vì vậy nhiều giáo viên vào đầu năm học đã “nhờ” vài em có vốn tiếng Việt tương đối nhằm giúp giáo viên trong quá trình tổ chức lớp học giống như những “phiên dịch”. Sau đó, giáo viên có sáng kiến bồi dưỡng, hướng dẫn những em học sinh này giống như một “trợ giảng” đắc lực cho giáo viên nhằm thực hiện phương pháp hỏi đáp trong quá trình dạy học (thường được sử dụng ở lớp Một và lớp Hai). Phương pháp này rất gần gủi và nhẹ nhàng giúp cho giáo viên và học sinh cảm thấy thoải mái, không còn sự ngăn cách mà không tốn nhiều thời gian. Việc hỏi đáp  giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh… Đây là một hình thức tổ chức dạy học không mới nhưng rất phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số còn hạn chế về vốn tiếng Việt.

c. Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp

Nhà trường đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp và xem đây là điều kiện thuận lợi để các em có được những khoảng thời gian hoạt động vui chơi tập thể giúp các em mạnh dạn, tự tin và có cơ hội để bồi dưỡng tiếng Việt một cách hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giáo dục vì học sinh của trường chiếm trên 85% là học sinh dân tộc thiểu số, việc nâng cao chất lượng giáo dục gặp rất nhiều khó khăn do phần lớn học sinh vốn tiếng Việt chưa đáp ứng được yêu cầu nên việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong những giải pháp hiệu quả để tăng cường tiếng Việt cho các em. Do đó, nhà trường có kế hoạch cụ thể cho các đoàn thể, khối lớp thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp như: Thành lập các câu lạc bộ; giao lưu kiến thức vào sáng thứ hai chào cờ; múa hát sân trường, tạo môi trường tiếng việt trong và ngoài lớp bằng các câu khẩu hiệu, bảng, biểu; thư viên xanh, thư viện lớp học;  thi nghi thức, kiến thức về đội, giao lưu văn nghệ, tổ chức các trò chơi truyền thống … Những hoạt động này rất phù hợp để tăng cường tiếng Việt cho các em vì để thực hiện tốt hoạt động này thì các em phải tập trung tập luyện, chuẩn bị, trao đổi những thông tin giữa bạn bè trong tổ, trong lớp.

d. Sinh hoạt Đội – Sao Nhi đồng

Nhà trường đã tổ chức đưa các trò chơi dân gian vào chương trình sinh hoạt Đội và sao Nhi đồng. Các trò chơi dân gian các vùng miền, các dân tộc rất phong phú. Tổng phụ trách đội cùng với giáo viên chủ nhiệm các lớp đã chọn lựa nhiều trò chơi liên quan đến việc hình thành và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh dân tộc. Trong tất cả các trò chơi đều bắt buộc học sinh sử dụng ngôn ngữ tiếng phổ thông. Giáo viên thường phân ra từng nhóm và phân một học sinh người Kinh phụ trách. Đặc biệt nhà trường có tủ sách thiếu nhi rất phong phú nên thường tổ chức cho học sinh đọc và xây dựng thư viện lưu động sân trường tạo điều kiện cho các em mượn để đọc nhằm tăng cường tiếng Việt cho các em một cách hiệu quả. Qua việc sinh hoạt với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, tạo cho các em một sân chơi bổ ích, các em được tham gia rất nhiều trò chơi hấp dẫn nên đã lôi cuốn được các em, giúp các em thêm ham muốn được đến trường và tạo điều kiện để bổ sung thêm vốn tiếng Việt cho mình.

g. Giao lưu tiếng Việt giữa các khối lớp

Chương trình “Giao lưu tiếng việt của chúng em” là hoạt động với ý nghĩa nhằm khơi dậy ở các em học sinh dân tộc lòng ham thích tiếng việt, yêu quý trân trọng bản sắc văn hóa dân tộc, tạo không khí vui tươi “Học mà chơi, chơi mà học” góp phần xây dựng các tiêu chí trường học thân thiện, đồng thời phát hiện năng khiếu, khả năng nghe, nói, đọc, viết, khả năng diễn thuyết của học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học. Qua hoạt động giao lưu tiếng Việt giúp các em học sinh dân tộc thiểu số hình thành kĩ năng sử dụng tiếng Việt và tình yêu tiếng Việt.

Nhà trường đã tổ chức giao lưu giữa các lớp trong khối, giữa các khối với nhau và xây dựng nhiều hình thức gồm nhiều hoạt động liên quan đến việc sử dụng tiếng Việt dựa trên hướng dẫn của phòng Giáo dục- Đào tạo như kể chuyện, hát dân ca, diễn kịch, đọc thơ… Qua quá trình chuẩn bị và luyện tập, các em được hướng dẫn một cách bài bản để có được những kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Nhà trường đã phát hiện và bồi dưỡng được khá nhiều học sinh dân tộc thiểu số để thành lập đội tuyển tham dự giao lưu cấp Huyện. Chương trình này, các em có nhiều cơ hội giao lưu, tiếp xúc và bổ sung vốn tiếng Việt giúp cho các em rất nhiều trong học tập.

h. Tạo thói quen sử dụng tiếng phổ thông ở gia đình và cộng đồng

Gia đình là trường học đầu tiên và vô cùng quan trọng đối với mỗi đứa trẻ đặc biệt là việc hình thành ngôn ngữ cho trẻ. Thực tế ở nhà trường có đến trên 85% học sinh là người dân tộc thiểu số. Các em sống với gia đình, ít có điều kiện gặp gỡ, giao lưu với người Kinh nên vốn tiếng Việt của các em rất hạn chế trong khi những người trong gia đình ít sử dụng tiếng phổ thông.

Hiểu được tầm quan trọng của tiếng Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số. Chi bô và nhà trường phân công Đảng viên và giáo viên phụ trách thôn làng thường xuyên phối hợp với ban tự quản thôn, các đoàn thể thôn lồng ghép nhắc nhở phụ huynh học sinh trong các cuộc họp, sinh hoạt thôn  quan tâm đến việc bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình và tầm quan trọng của tiếng Việt trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Từ đó có thói quen sử dụng tiếng phổ thông trong sinh hoạt hàng ngày.

Trong nhà trường nên tăng cường Tiếng Việt cho học sinh mẫu giáo trong hè  trước khi vào lớp Một là 01 tháng.

Tóm lại:  Đến nay, nhiều gia đình dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện nói chung và xã Đắk Dục  nói riêng đã có thói quen dùng tiếng phổ thông trong sinh hoạt gia đình; các chi đoàn ở thôn  đã xây dựng được kế hoạch hoạt động để tổ chức sân chơi cho các em trong thời gian nghỉ hè và thời gian các em nghỉ học. Vì vậy trẻ được tiếp xúc với tiếng Việt ngay tại gia đình và ở cộng đồng, vốn tiếng Việt của các em cũng được nâng lên rất nhiều góp phần thuận lợi cho việc tiếp thu kiến thức ở trường.

i. Khuyến khích giáo viên tự học tiếng dân tộc

Trong những năm học vừa qua, nhà trường cũng đã có một số giáo viên công tác lâu năm ở đây thấy được sự cần thiết và thuận lợi trong quá trình giảng dạy khi giáo viên có thể nghe và nói được tiếng dân tộc nên họ đã tự học. Khi giáo viên có được vốn tiếng dân tộc cơ bản cần thiết thì việc giao tiếp với học sinh trở nên gần gủi hơn, tạo điều kiện để giải thích cho các em hiểu được những tiếng, từ, câu khó, hướng dẫn cho các em phát âm tiếng Việt một cách chính xác.

Thấy được hiệu quả của việc học tiếng dân tộc, nhà trường đã tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên tham gia chương trình học. Nhiều giáo viên đã tự học tiếng dân tộc và nắm được những từ ngữ cơ bản phục phụ cho công tác giảng dạy.

Qua việc kiểm tra dự giờ những lớp mà giáo viên nói và hiểu được tiếng dân tộc nhất là lớp 1 thì tỷ lệ học sinh nói và hiểu tiếng Việt cũng nhiều hơn, chất lượng dạy và học cũng cao hơn so với những lớp khác. Vì vậy có thể xem đây là một trong những giải pháp, là phương tiện thiết thực để tăng cường tiếng Việt và nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số một cách hiệu quả.

Hoàng Thị Hoà (HT Trường TH Đắk Dục).